TÓM
TẮT
Mục đích: Đánh giá tính khả thi và kết quả của phẫu thuật nội soi cắt đại tràng
sigma - trực tràng lấy bệnh phẩm qua ngả tự nhiên.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu trên 45 bệnh nhân trong thời gian từ 10/2009 đến 8/2013.
Trong đó có 11 nam, 34 nữ. Tất cả các trường hợp đều được cắt đoạn sigma - trực
tràng lấy bệnh phẩm qua ngả hậu môn hoặc âm đạo.
Kết quả: Tất cả các trường hợp đều được thực hiện thành công qua nội soi ổ bụng.
Không có tai biến, biến chứng sau mổ. Các bệnh nhân đều cảm thấy ít đau sau mổ,
trung tiện sớm và xuất viện sớm. Một trường hợp có biểu hiện bán tắc ruột sau
mổ 1 tuần, không phải mổ lại.
Kết luận: Kinh nghiệm ban đầu của chúng tôi cho thấy phẫu thuật nội soi cắt đoạn
sigma - trực tràng lấy bệnh phẩm qua ngả tự nhiên là khả thi. Phẫu thuật phát
huy được những khả năng của một phẫu thuật nội soi cắt đại trực tràng thông
thường. Mặt khác, nó tránh được đường mổ bụng để lấy bệnh phẩm. Phẫu thuật giúp
giảm sang chấn cho bệnh nhân, ít đau sau mổ, phục hồi sớm, chức năng cơ thắt
được bảo tồn. Cần có thời gian theo dõi lâu dài và với số lượng bệnh nhân lớn
hơn để đánh giá chính xác hơn kết quả của phẫu thuật này, đặc biệt là về khía
cạnh ung thư học.
Từ khóa: cắt đại trực tràng nội
soi, lấy bệnh phẩm qua ngả tự nhiên
LAPAROSCOPIC COLORECTAL SURGERY WITH SPECIMEN EXTRACTION VIA
NATURAL ORIFICES (HYBRID
N.O.T.E.S)
Aim:
To evaluate the feasibility and outcomes of laparoscopic colorectal surgery with specimen extraction via natural orifices.
Method: Prospective study in 45 patients from 10/2009 to 8/2013. There
were 11 male and 34 female patients. The all cases were sigmoidectomy or anterior
resection/ low anterior resection with specimen extraction though vagina or
anus.
Results: All cases were successfully performed
by laparoscopy. There was no complication during and after operation. Patients
felt less pain, had early bowel movement and early discharge from hospital.
There was 1 patient with symtoms of bowel obstruction in postop which had been
treated medically.
Conclusion:
Our initial experiences showed that laparoscopic colectomy with specimen
extraction through natural orifices is feasible. It has full advantages of the
original laparoscopic colectomy, otherwise it prevents an abdominal incision
for specimen extraction. Patient has less pain and short hospital stay.
Sphincteric function was preserved. There will be a need for a larger scale
study with longer follow-up time to further evaluate the oncologic outcome of this method.
Keywords: laparoscopic colectomy, specimen extraction
via natural orifice.
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Sự
phát triển của phẫu thuật nội soi trong phẫu thuật đại trực tràng cho cả các
bệnh lý lành tính và ung thư đã và đang ngày một phát triển và mở rộng kể từ
khi nó được giới thiệu lần đầu tiên từ năm 1992 bởi Jacobs. Các nghiên cứu tiền
cứu so sánh ngẫu nhiên đã chứng minh các ưu điểm của phẫu thuật nội soi so với
mổ mở như ít đau, phục hồi nhanh, thời gian nằm viện ngắn, sẹo mổ trên bụng nhỏ
hơn, thẩm mỹ … mặt khác vẫn đảm bảo độ an toàn về mặt ung thư. Tuy nhiên các
phẫu thuật nội soi đại trực tràng hầu hết vẫn cần một đường mổ bụng nhỏ khoảng
4-6 cm để lấy bệnh phẩm ra ngoài hoặc hỗ trợ làm miệng nối. Tỉ lệ các biến
chứng liên quan đến đường mổ bụng nhỏ này chiếm khoảng 11% như đau sau mổ,
nhiễm trùng, thoát vị vết mổ, tắc ruột …
Chúng
tôi mô tả kỹ thuật mổ cắt đại trực tràng nội soi sử dụng ngả tự nhiên (hậu môn
hoặc âm đạo ở phụ nữ) để lấy bệnh phẩm ra ngoài đơn thuần hoặc hỗ trợ làm miệng
nối máy trong cơ thể. Hiện nay, ở Việt
Nam, chưa có trung tâm nào báo cáo về phẫu thuật này. Trên thế giới cũng chỉ có
báo cáo lẻ tẻ của một số tác giả thực hiện từ khoảng năm 2008 đến nay.
Do
đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục tiêu bước đầu đánh giá tính khả
thi, độ an toàn và kết quả của phẫu thuật nội soi cắt đại trực tràng với bệnh
phẩm được lấy qua ngả tự nhiên cho bệnh lý lành tính và ung thư đại trực tràng.
1. PHƯƠNG PHÁP
PHẪU THUẬT
Tùy
theo vị trí khối u, chúng tôi sử dụng 4 – 5 trocar bụng. Phẫu tích đại trực
tràng tiến hành như mổ nội soi thông thường.
Trường
hợp lấy bệnh phẩm qua ngả hậu môn (áp dụng cho cả nam và nữ):
Phẫu
thuật cắt đại tràng sigma hoặc cắt đoạn trực tràng: Thì phẫu tích nội soi tiến hành theo thông thường.
Sau khi hoàn tất thì phẫu tích, đánh dấu hai đầu cắt trên và dưới u. Tiến hành
khâu 1 mũi túi ở trên diện cắt dưới 2cm. Qua hậu môn, súc rửa sạch mỏm trực
tràng với dung dịch Betadine. Nong hậu môn với ống nong bougie d’Hegar. Tiến
hành cắt trực tràng mũi khâu túi khoảng 1 cm. Bệnh phẩm được cho vào túi nhựa
và kéo ra ngoài qua ngả hậu môn. Đầu trên đại tràng sigma được cắt ở ngoài hậu
môn. Qua đó, đưa đầu máy cắt tròn (anvil) vào và khâu cố định vào đầu gần của
đại tràng với mũi khâu túi bằng Prolene 2.0. Cắt lại mỏm trực tràng với máy cắt
thẳng nội soi. Cuối cùng, nối đại tràng- trực tràng tận – tận với máy nối tròn
theo kỹ thuật thông thường.
Trường hợp lấy bệnh phẩm qua ngả âm đạo (chỉ
áp dụng cho nữ):
Cắt
đại tràng sigma hoặc cắt đoạn trực tràng: Phẫu tích đại trực tràng được tiến hành như thông thường. Cắt trực
tràng dưới u bằng máy cắt thẳng nội soi. Di động đại tràng trái (có thể phải hạ
đại tràng góc lách) đủ dài để có thể kéo qua ngả âm đạo qua lỗ mở ở túi cùng
sau. Bệnh phẩm được bỏ vào túi nhựa và kéo ra ngoài qua lỗ mở ở túi cùng sau âm
đạo. Tiến hành cắt đại tràng trên u và khâu cố định đầu máy nối tròn (anvil),
sau đó đẩy đầu máy nối trở lại ổ bụng. Nối đại tràng xuống – mỏm trực tràng tận
– tận với máy nối tròn theo phương pháp thông thường. Lỗ mở âm đạo được khâu
kín dễ dàng bằng chỉ vicryl 2.0 từ bên ngoài qua âm đạo.
Đoạn đại tràng kéo ra ngoài qua ngả âm đạo đã được cắt và khâu cố định với đầu máy nối tròn.
Vị trí các lỗ trocar trên ổ bụng sau phẫu thuật cắt trực tràng thấp nội soi (không có đường mở bụng)2. KẾT QUẢ:
Trong
thời gian từ 10/2009 đến 8/2013, chúng tôi đã thực hiện thành công 45 trường
hợp cắt đại- trực tràng nội soi với bệnh phẩm được lấy qua ngả tự nhiên (trực
tràng hoặc âm đạo). Tỉ lệ nữ/nam là 3,1
(34 nữ và 11 nam). Tất cả các trường đều được cắt đọan đại tràng sigma trực
tràng hoặc cắt đoạn trực tràng thấp. Hai trường hợp do bệnh lý đa polyp đại
tràng sigma và 43 trường hợp là ung thư đại tràng sigma hoặc trực tràng. Trong 43
trường hợp ung thư đại- trực tràng, 31 trường hợp đánh giá giai đọan u T3, 12
trường hợp đánh giá T2. Không có trường hợp nào phải chuyển sang mổ mở. Không
có tử vong phẫu thuật.
Bảng 1:
Kết quả phẫu thuật
Biến số |
Số bệnh nhân |
Tuổi trung bình |
55 |
Kích thước ngang u |
2 - 4 cm |
Giải phẫu bệnh lý - Carcinome tuyến đại tràng - Đa polyp đại tràng |
43 ca 2 ca |
Độ dài cắt trên u |
12 ± 1,4 cm |
Độ dài cắt dưới u |
5 ± 1 cm |
Miệng nối cách rìa hậu môn (cho các ung thư đại
tràng sigma trực tràng) |
5 ± 1,5 |
Số lỗ trocars |
4 – 5 |
Thời gian mổ |
150 ± 42 phút |
Thời gian nằm viện sau mổ |
7 ngày |
Chỉ số đau sau mổ (VAS) |
3 ± 1,2 |
Chức năng cơ vòng hậu môn sau mổ |
Bình thường |
Các
bệnh nhân đều cảm thấy ít đau sau mổ. Trung tiện có sớm, trung bình khỏang ngày
thứ 1 - 2 sau mổ. Chức năng cơ thắt hậu môn được đo trước và sau mổ cho thấy
không có thay đổi về chức năng.
Về
biến chứng: Không có tai biến hay biến chứng gì trong mổ và thời gian hậu phẫu
sớm. Một trường hợp cắt đại tràng sigma trực tràng có biểu hiện bán tắc ruột
sau mổ phải nhập viện, tuy nhiên không phải mổ lại.
3. BÀN LUẬN:
Kể từ khi phẫu thuật nội soi được giới thiệu đầu tiên
từ cách nay hơn 20 năm, các nhà phẫu thuật đã không ngừng nghiên cứu tìm tòi
sáng tạo các phương pháp nhằm đạt được kết quả tối ưu cho bệnh nhân trên các
khía cạnh về ung thư học, bảo tồn chức năng và chất lượng cuộc sống sau mổ. Các
nhà sản khoa có thể xem như những người tiên phong sử dụng âm đạo như ngả tự
nhiên khi áp dụng một số phẫu thuật như cắt tử cung, buồng trứng, các khối u
vùng chậu …. từ những năm 1940 – 1950. Ca phẫu thuật cắt túi mật nội soi lấy
bệnh phẩm qua ngả âm đạo đầu tiên được thực hiện năm 1993. Gần đây, một số phẫu
thuật nội soi khác như cắt lách, cắt thận cũng đã bắt đầu sử dụng ngả tự nhiên
để lấy bệnh phẩm. Như vậy khuynh hướng phẫu thuật sử dụng ngả tự nhiên để lấy
bệnh phẩm hoặc hỗ trợ làm miệng nối đã thực sự bắt đầu hé mở một chân trời mới
cho khuynh hướng phẫu thuật ít xâm hại.
Phẫu thuật nội soi qua ngả tự nhiên (NOTES: natural orifice transluminal endoscopic
surgery) là phẫu thuật sử dụng ngả tự nhiên (trực tràng, âm đạo, dạ dày …)
để đưa dụng cụ phẫu thuật vào ổ bụng thực hiện các thao tác phẫu thuật. Hiện
nay một số phẫu thuật NOTES đã được thực hiện như cắt túi mật, cắt ruột thừa …
Tuy nhiên phẫu thuật này đòi hỏi một số dụng cụ và trang thiết bị đặc biệt như
camera ống mềm, các dụng cụ dài… và thao tác tương đối khó khăn và phức tạp. Vettoreto
đã nhận xét khuynh hướng phẫu thuật qua ngả tự nhiên ngày nay có thể chia làm
hai loại : phẫu thuật NOTES sử dụng đường vào qua ngả nội soi tiêu hóa và phẫu
thuật NOTES sử dụng đường vào qua nội soi ổ bụng.
Một khuynh hướng khác đã có từ 5 năm nay đó là chủ
trương phẫu thuật nội soi chỉ qua một đường vào ổ bụng (Single port Laparoscopic surgery). Phẫu thuật này chỉ tạo một đường
rạch khoảng 3 cm, thông thường ở đường giữa rốn, có dùng dụng cụ hỗ trợ tránh
thoát khí khi đưa trocar nội soi vào (ví dụ SILS® port…) hoặc đưa
các trocar trực tiếp qua cân thành bụng. Qua đường mổ duy nhất này, phẫu thuật
viên thực hiện phẫu tích và cũng dùng để đưa bệnh phẩm ra ngoài hoặc làm miệng
nối ngoài cơ thể. Tuy nhiên thao tác phẫu thuật rất khó khăn, các dụng cụ
thường bị chạm nhau làm hạn chế khả năng phẫu tích. Chính vì vậy khó triển khai
làm các phẫu thuật lớn hơn và phức tạp hơn.
Phẫu thuật cắt đại trực tràng qua nội soi ổ bụng với
bệnh phẩm được lấy qua ngả tự nhiên (chúng tôi tạm gọi là Hybrid NOTES) có thể xem là sự hợp lưu của hai chuyên ngành: phẫu
thuật nội soi và nội soi tiêu hóa. Ngả tự nhiên có thể là hậu môn hoặc âm đạo
(phụ nữ). Cũng qua ngả tự nhiên này, phẫu thuật viên có thể dùng dụng cụ hỗ trợ
thao tác phẫu tích và hỗ thực hiện miệng nối trong ổ bụng. Phương pháp này giúp
phẫu thuật viên vẫn phát huy được hết khả năng phẫu tích bằng nội soi ổ bụng
như thông thường, mặt khác tránh được đường mở bụng. Qua đó tránh được các tai
biến, biến chứng liên quan đến đường mở bụng, bệnh nhân ít đau và mặt khác,
mang lại tính thẩm mỹ cao hơn cho bệnh nhân.
Nhiều tác giả đã giới thiệu các dụng cụ khác nhau để
hỗ trợ lấy bệnh phẩm qua ngả âm đạo hoặc hậu môn. Tuy nhiên chưa có dụng cụ nào
thực sự ưu việt. Do sự hạn chế về kích thước lỗ tự nhiên nên bước đầu chúng tôi
chỉ chọn lựa những khối u có đường kính <4cm. Một mối quan tâm khác là vấn
đề chống nhiễm khuẩn ổ bụng nhất là khi có mở đại tràng hoặc trực tràng qua nội
soi. Chúng tôi chỉ thực hiện phẫu thuật khi bệnh nhân đã được chuẩn bị đại
tràng thật tốt và hai đầu ruột được cô lập bằng chỉ cột hoặc stapler. Bệnh phẩm
nếu được cắt trong ổ bụng sẽ được bỏ trong bọc nhựa kín tránh khả năng rơi vãi
tế bào ung thư hoặc gây nhiễm khuẩn khi mang ra ngoài qua ngả tự nhiên. Thực tế
trong kinh nghiệm bước đầu của chúng tôi chưa gặp trường hợp nào có tụ dịch
hoặc áp xe tồn lưu trong ổ bụng sau mổ.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy không có sự
thay đổi nào về mặt chức năng âm đạo hay cơ thắt hậu môn trước và sau mổ. Một
số tác giả khác cũng có nhận xét tương tự.
4.
KẾT LUẬN:
Qua những kết quả ban đầu, chúng tôi nhận thấy phẫu
thuật nội soi cắt đại trực tràng lấy bệnh phẩm qua ngả tự nhiên là một phẫu
thuật khả thi. Phẫu thuật phát huy được những khả năng của một phẫu thuật nội
soi cắt đại tràng thông thường. Mặt khác, nó tránh được đường mổ bụng để lấy
bệnh phẩm. Phẫu thuật giúp giảm sang chấn cho bệnh nhân, ít đau sau mổ, phục
hồi sớm. Cần có thời gian theo dõi lâu dài và với số lượng bệnh nhân lớn hơn để
đánh giá chính xác hơn kết quả của phẫu thuật này, đặc biệt là về khía cạnh ung
thư học.
BsckII Nguyễn Văn Thưởng
Bình luận