CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
BIỂU MÔ DẠ DÀY
Bs CKII Nguyễn Văn Thưởng - Khoa Ngoại - Bệnh viện đa khoa Tràng An Hà Nội
MỞ ĐẦU
Ung thư dạ dày (UTDD) bao gồm ung thư biểu mô và không thuộc biểu
mô. Hơn 90% UTDD thuộc ung thư biểu mô nên khi nói về UTDD trước hết nói về ung
thư biểu mô. Đây là loại ung thư hay gặp trong ung thư đường tiêu hóa, nhất là
các nước châu Á.
Ung thư dạ dày (UTDD) là một
ung thư phổ biến gây ra cái chết đứng hàng thứ hai trên toàn thế giới. Hai phần
ba các UTDD xảy ra ở các nước đang phát triển. UTDD chiếm tỷ lệ 9,9% trong tất
cả các bệnh ung thư mới được phát hiện và tỷ lệ tử vong chiếm 12,1% trong các bệnh
ung thư.
Ở Việt Nam, UTDD đứng hàng thứ
hai sau ung thư phổi ở nam và đứng hàng thứ 3 ở nữ sau ung thư cổ tử cung và
ung thư vú. Theo ghi nhận ung thư ở Việt Nam giai đoạn 2001-2004 ước tính trung
bình một năm có khoảng 6.395 trường hợp mắc mới chiếm tỷ lệ 22,5/100.000 dân đối
với nam và 3.725 trường hợp chiếm tỷ lệ 10,2/100.000 dân đối với nữ. Theo ước
tính của cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế, năm 2000 có khoảng 876.000 trường
hợp UTDD mới mắc, chiếm 8,7% số trường hợp ung thư mới và 647.000 trường hợp tử
vong do UTDD (chiếm 10,4% các trường hợp tử vong do ung thư) .
Cho đến nay phấu thuật vẫn là
phương pháp điều trị chính đối với UTDD giai đoạn sớm. Tuy nhiên hóa chất đã
làm thay đổi đáng kể tiên lượng và thời gian sống sau mổ đối với UTDD đặc biệt
UTDD giai đoạn tiến triển.
MỘT SỐ
ĐIỂM VỀ GIẢI PHẪU CẦN LƯU Ý TRONG CHẨN ĐOÁN ĐIỀU TRỊ UNG THƯ DẠ DÀY
1. Dạ
dày là phần phình to nhất của ống tiêu hóa, nối giữa thực quản và tá tràng, nằm sát vòm
hoành trái, ở sau cung sườn trái và vùng thượng vị trái. Dạ dày gồm có 2 thành
trước sau, 2 bờ cong lớn nhỏ, 2 đầu (tâm vị ở trên, môn vị ở dưới). Thành dạ
dày có các lớp : niêm mạc, dưới niêm mạc, lớp cơ và lớp thanh mạc.
Hội nghiên cứu ung thư Nhật Bản chia dạ dày làm 3 vùng: 1/3 trên, 1/3 dưới và
1/3 giữa. Ba vùng này được xác định bằng
cách dùng 2 điểm cách đều nhau chia bờ cong lớn và bờ cong nhỏ rồi nối 2 điểm
này với nhau.
2. Vòng mạch dạ dày
Bắt nguồn từ động mạch thân tạng gồm: Vòng mạch bờ cong nhỏ (Bó mạch vị phải,
Bó mạch vị trái); Vòng
mạch bờ cong lớn (bó mạch vị mạc nối phải, bó mạch vị mạc nối trái), những động
mạch vị ngắn và động mạch vùng đáy vị và
tâm vị.
3. Phân
bố hệ bạch huyết dạ dày
Hệ bạch huyết dạ dày gồm 3
chuỗi cơ bản: chuỗi vành vị gồm 3 nhóm (nhóm liềm động mạch vành vị, nhóm sát
tâm vị và thành, nhóm bờ cong nhỏ dạ dày; chuỗi gan: gồm 5 nhóm (nhóm động mạch gan
chung và động mạch gan riêng, nhóm động mạch vị tá tràng, nhóm dưới môn vị và động
mạch vị mạc nối phải, nhóm động mạch môn vị, nhóm tá tụy) và chuỗi lách gồm 4 nhóm (nhóm vị mạc nối phải, nhóm
của dây chằng vị tỳ, nhóm rốn lách, nhóm động mạch lách
Căn cứ vào phân bố hệ bạch huyết của dạ dày đã được
nghiên cứu và công nhận, căn cứ vào sự di căn hạch bạch huyết theo phân bố vùng
tổn thương, hiệp hội nghiên cứu UTDD Nhật Bản đã đánh số các nhóm hạch để thuận
lợi cho việc chuẩn hóa nạo vét hạch trong UTDD như sau.
Nhóm 1: các hạch ở bên phải tâm vị
Nhóm 2: các hạch ở bên trái tâm vị
Nhóm 3: các hạch dọc theo bờ cong nhỏ
Nhóm 4: các hạch dọc bờ cong lớn
4sa: các hạch dọc theo các mạch máu ngắn
4sb: các hạch dọc theo các mạch máu vị mạc nối
trái
4d: các hạch dọc theo các mạch máu vị mạc nối
phải
Nhóm 5: các hạch trên môn vị
Nhóm 6: các hạch dưới môn vị
Nhóm 7: các hạch dọc theo động mạch vị trái
Nhóm 8: các hạch dọc theo động mạch gan chung
8a: nhóm trước
8b: nhóm sau
Nhóm 9: các hạch dọc theo động mạch thân tạng
Nhóm 10: các hạch tại rốn lách
Nhóm 11: các hạch dọc động mạch lách
Nhóm 12: các hạch trong dây chằng gan tá tràng
Nhóm 13: các hạch mặt sau đầu tụy
Nhóm 14: các hạch ở gốc mạc treo ruột non
14a: các hạch dọc theo động mạch mạc treo
tràng trên
14b: các hạch dọc theo tĩnh mạch mạc treo
tràng trên
Nhóm 15: các hạch dọc theo mạch máu đại tràng giữa
Nhóm 16: các hạch xung quanh động mạch chủ
16a1: các hạch xung quanh lỗ động mạch chủ
16a2: các hạch xung quanh động mạch chủ từ bờ
trên động mạch thân tạng đến bờ dưới tĩnh mạch thận trái
16b1: các hạch xung quanh động mạch chủ bụng
từ bờ dưới tĩnh mạch thận trái đến bờ trên của động mạch mạc treo tràng dưới.
16b2: các hạch xung quanh động mạch chủ từ bờ
trên động mạch mạc treo tràng dưới đến chỗ chia đôi của động mạch chủ.
CHẨN
ĐOÁN
1. Lâm
sàng
Các biểu hiện lâm sàng của
UTDD nhiều khi rất nghèo nàn, thường không có biểu hiện lâm sàng nào đặc hiệu đặc
biệt là ung thư giai đoạn sớm và rất dễ nhầm với triệu chứng của các bệnh lý
khác. Vì vậy để chẩn đoán phát hiện sớm cần làm các chẩn đoán sàng lọc, tập
chung vào các đối tượng có nguy cơ cao. Tại Việt nam hầu hết các trường hợp bệnh
nhân đến viện ở giai đoạn muộn với triệu chứng biều hiện do biến chứng của khối
u gây ra.
Trịnh Hồng Sơn chia các biểu
hiện lâm sàng của UTDD thành 3 nhóm:
- Nhóm 1: đau âm ỉ
trên rốn, chướng bụng, đầy hơi, khó chịu sau khi ăn, mệt mỏi, sút cân, chán ăn,
thiếu máu, có khi bệnh nhân tự sờ thấy khối u bụng…
- Nhóm 2: đôi khi
bệnh nhân đến viện vì các các biến chứng: đau bụng dữ dội do thủng u, nôn do hẹp
môn vị hoặc ỉa phân đen, nôn ra máu, biểu hiện xuất huyết tiêu hoá do tổn
thương UTDD.
- Nhóm 3: bệnh ở giai
đoạn muộn, chỉ định phẫu thuật có khi không còn nữa, thể trạng suy kiệt, bụng
có nước ascite, phù 2 chi dưới, da niêm mạc vàng, có hạch thượng đòn, nhân di
căn ở gan hay tại phổi…
Trong nghiên cứu của Trịnh Hồng Sơn , với tổng số 306 bệnh
nhân UTDD thì 86,9% được chẩn đoán từ giai đoạn III trở lên theo TNM tức là
UTDD ở giai đoạn muộn. Đa số trường hợp tới khám vì gày sút cân, chán ăn, đau bụng
(trên 90%, đáng lưu ý là 38,6% bệnh nhân tới sờ thấy u bụng, 23,5% hẹp môn vị,
11,1% xuất huyết tiêu hoá, 3,6% đã thủng u.
2. Cận
lâm sàng
2.1. Chụp
dạ dày hàng loạt có thuốc cản quang
Là phương pháp kinh điển chẩn
đoán UTDD. Tổn thương sẽ tồn tại thường xuyên trên các phim hàng loạt. Các hình
ảnh X quang điển hình của UTDD: hình khuyết, hình cắt cụt tương ứng với thể
sùi, hình thấu kính tương ứng với thể loét, dạ dày có hình ống cứng thuôn nhỏ,
mất nhu động tương ứng với thể thâm nhiễm. Đặc biệt trong chụp đối quang kép dạ
dày cho phép xác định tổn thương rất rõ nét, ngay cả khi có biển đổi bất thương
ở niêm mạc dạ dày. Phương pháp này được hoàn thiện bởi Shirakabe và cộng sự vào
năm 1955. Kể từ đó, tỷ lệ những tổn thương dạ dày sớm được phát hiện bởi chụp đối
quang kép tăng lên rất nhanh, với độ nhạy 75%, trước khi có nội soi. Tuy nhiên,
từ khi có nội soi, với độ nhạy cao hơn nhiều, X quang dạ dày đã dần bị thay thế
và ít được chỉ định.
2.2. Nội
soi dạ dày ống mềm và sinh thiết
Là phương pháp chẩn đoán
chính xác nhất, càng sinh thiết nhiều mảnh, độ chính xác càng lớn. Sự phát triển
của phẫu thuật nội soi đã trở thành một trong những bước tiến quan trọng trong
phẫu thuật đường tiêu hoá. Nội soi dạ dày không những chỉ chẩn đoán tổn thương
giải phẫu bệnh như trước kia, ngày nay các chuyên gia còn phẫu thuật cắt bỏ tổn
thương qua nội soi với UTDD sớm.
2.3. Chụp
cắt lớp vi tính trong chẩn đoán UTDD
Chụp cắt lớp vi tính (CLVT) vẫn là một phương pháp chẩn
đoán được lựa chọn hàng đầu trong đánh giá tổn thương UTDD trước mổ và theo dõi
sau mổ. Thêm nữa, chụp CLVT còn là phương tiện trước hết đánh giá sự có mặt của
tổn thương ung thư tái phát và theo dõi đáp ứng của cơ thể với điều trị hoá chất.
Nhiều thế hệ máy CT-scanner
ra đời cho phép tạo ra được những lát cắt mỏng, vật liệu thuốc cản quang tốt nhất,
kỹ thuật dựng hình nâng cao, giúp cho chẩn đoán giai đoạn được chính xác hơn. Sự
xâm lấn của khối u thành dạ dày đánh giá trên CLVT được phân loại theo TNM: với
tổn thương T1 và T2 sự xâm lấn mới chỉ giới hạn ở thành dạ dày, bờ ngoài của
thành còn nhẵn. Với tổn thương T3, đường viền nhẵn của thanh mạc bị mở, và
thương tổn T4 khi khối u xâm lấn đến tạng lân cận, đại tràng ngang bị khối u
xâm lấn qua dây chằng vị đại tràng, tuỵ qua mạc nối nhỏ, và gan qua dây chằng
gan dạ dày. Phân biệt giữa giai đoạn T3 và T4 rất quan trọng vì khi đã chẩn
đoán có xâm lấn thì khả năng cắt được u rất hạn chế.
Tuy nhiên hạn chế của cắt lớp
vi tính vẫn còn tồn tại trong xác định có di căn hạch hay di căn phúc mạc...
2.4. Vai
trò của siêu âm, nội soi ổ bụng trong chẩn đoán UTDD
Siêu âm nội soi (Endoscopic ultrasound) ngày
nay được cho là công cụ thăm dò đáng tin cậy nhất trong chẩn đoán mức độ xâm lấn
thành của khối u và hạch lân cận, từ đó phân loại giai đoạn ung thư dạ dày trước
mổ. Phân loại chính xác giai đoạn của UTDD trước phẫu thuật là một yếu tố tiên
lượng có giá trị nhất nhằm dự đoán khả năng sống trên 5 năm sau mổ, và là nền tảng
giúp phẫu thuật viên đưa ra phương hướng điều trị thích hợp nhất: phẫu thuật
triệt căn hay tạm thời, đồng thời tránh những thăm dò không cần thiết ở bệnh
nhân UTDD không còn khả năng cắt bỏ. Trong nghiên cứu về lợi ích của siêu âm nội
soi trong chẩn đoán giai đoạn trước mổ ở 41 bệnh nhân UTDD của Tumur Tsendsuren
và cộng sự, tỷ lệ chẩn đoán đúng giai đoạn T tương ứng là: T1: 83,3%, T2: 60%,
T3: 100%, T4: 25%. Còn theo mức độ di căn hạch, chẩn đoán chính xác 66%. Độ
chính xác của EUS ở giai đoạn N0 rất cao, 100%.
2.5. Chất
chỉ điểm khối U (Tumor Marker)
Dựa trên cơ sở: khi xuất hiện khối u trong cơ thể, bản
thân khối u sẽ sản sinh ra những chất đặc biệt, các chất này đóng vai trò như
những chất chỉ điểm cho khối u (Tumor Marker), và có thể được phát hiện nhờ những
phản ứng kháng nguyên, kháng thể, enzim (ELISA)..Với sự tiến bộ của các ngành
khoa học như vật lý, hoá học, sinh học phân tử… đã đóng góp đáng kể trong việc
chẩn đoán sớm ung thư thông qua các chất chỉ điểm khối u, giúp nâng cao chất lượng
sống cho những bệnh nhân bị ung thư nói chung va ung thư dạ dày nói riêng.
Để đánh giá khả năng áp dụng lâm sàng của chất chỉ điểm
khối u thuộc nhóm kháng nguyên liên kết ung thư (TAA: tumor associated
Antigen). Dựa vào sự có mặt hay không có mặt chất này trong máu, có thể khẳng định
được là có tồn tại tế bào ung thư trong cơ thể. Nhờ có tính đặc hiệu của phản ứng
kháng nguyên kháng thể mà xét nghiệm này có độ đặc hiệu cao, nhất là với kỹ thuật
sử dụng kháng thể đơn dòng (Antibody monoclonal).
Chất chỉ điểm khối u đặc hiệu đối với UTDD là CA72-4.
CA72-4 là một glucoprotein có trọng lượng phân tử khoảng 400.000 daltons, được
Colcher và cộng sự phát hiện năm 1983. Từ những năm 1996, bệnh viện Việt Đức đã
tiến hành nghiên cứu về vai trò của CA72-4 trong chẩn đoán và tiên lượng điều trị
ung thư biểu mô tuyến dạ dày. Kết quả: với giá trị ngưỡng 4,35 U/ml, xét nghiệm
CA72-4 có giá trị chẩn đoán UTDD với độ nhạy 47,5%, độ đặc hiệu 100%. Hàm lượng
CA72-4 trờ về mức ban đầu sau phẫu thuật chứng tỏ khối u đã được cắt bỏ hoàn
toàn. Với những trường hợp bệnh nhân phẫu thuật tạm thời (không cắt được u),
CA72-4 không giảm, tức là vẫn ở mức bệnh lý.
Nghiên cứu cũng cho thấy, bệnh nhân có hàm lượng CA72-4 < 7U/ml có thời
gian sống sau mổ dài hơn bệnh nhân có CA72-4 > 7U/ml (p<0,05).
2.6. PET-CT
Trong ung thư nói chung và
trong ung thư dạ dày nói riêng, PET/ CT hay còn được gọi là chụp xạ hình cắt lớp
positron (Positron Emission Tomography- Computed Tomography) giúp cải thiện
đáng kể khả năng chẩn đoán chính xác giai đoạn bệnh trước mổ, đánh giá đáp ứng
điều trị, phát hiện bệnh tái phát. PET-CT là công cụ chẩn đoán hiện đại và đắt tiền,
rất có giá trị trong chuyên ngành ung thư học.
PET có độ chính xác cao trong đánh giá khả
năng cắt bỏ được khối u và phát hiện những tổn thương di căn xa tại thời điểm
nghiên cứu.
PET- CT mặc dù có giá trị
trong chẩn đoán giai đoạn, theo dõi trong UTDD tái phát và và theo dõi tác dụng
của điều trị hóa chất, được nhiều nghiên cứu khẳng định nhưng trong điều kiện
Việt Nam chi phí cho phương tiện này còn rất cao vì vậy chỉ định cần được cân
nhắc.
3. Phân
loại giai đoạn bệnh
Phân loại giai đoạn bệnh
trong ung thư nói chung và ung thư dạ dày nói riêng có vai trò quan trọng trong
quá trình điều trị, theo dõi bệnh nhân, đánh giá kết quả điều trị, cũng như trao đổi thông tin giữa các trung
tâm nghiên cứu, điều trị ung thư trên thế giới.
3.1.
Phân loại TNM ung thư biểu mô dạ dày theo UICC và AJCC
T: U
nguyên phát
Tx: U nguyên phát không đánh
giá được
Tis: Tổn
thương ung thư chỉ khu trú ở lớp niêm mạc, chưa lan tới lớp dưới niêm mạc.
T1: Tổn thương ung thư khu
trú ở lớp niêm mạc, dưới niêm mạc.
T2: Tổn thương ung thư xâm lấn
đến lớp cơ (T2a), hoặc đến dưới thanh mạc (T2b)
T3: Tổn thương ung thư xâm lấn
tới lớp thanh mạc.
T4: Tổn thương ung thư xâm lấn
qua thanh mạc ra tổ chức xung quanh.
N: Hạch
vùng
Nx: Không rõ có di căn hạch
hay không
N0: Không có hạch vùng
N1: Hạch cạnh dạ dày cách u
không quá 3 cm dọc theo bờ cong lớn và bờ cong nhỏ dạ dày
N2: Hạch vùng đã vượt quá u
nguyên phát 3 cm, gồm các hạch dọc theo động mạch vành vị, thân tạng, lách, động
mạch gan chung.
N3: Hạch xa gồm các hạch dọc
theo động mạch chủ, hạch mạc treo ruột, hạch sau tá tràng đầu tuỵ, hạch cuống
gan, dây chằng gan tá tràng.
M: Di
căn xa
M0: Không di căn xa
M1: Có di căn xa (gan, phúc mạc,
phổi, buồng trứng, hạch trên đòn).
Dựa theo hệ thống TNM, giai
đoạn bệnh được xác định như sau:
Giai đoạn 0 : TisN0M0
Giai đoạn Ia : T1NM0
Giai đoạn Ib : T1NM0,
T2N0M0
Giai đoạn II : T1N1M0,
T2N1M0, T3N0M0
Giai đoạn IIIa : T2N2M0,
T3N1M0, T4N0M0
Giai đoạn IIIb : T3N2M0,
T4N1M0
Giai đoạn IV : T4N2M0, T
bất kỳN bất kỳ, M1
3.2.
Phân loại theo Kodama (Nhật Bản)
Phân loại
này dựa trên vị trí của ung thư và nhóm
hạch di căn
|
N1 |
N2 |
N3 |
N4 |
Ung
thư 1/3 trên (tâm phình vị) |
1,2,3,4 |
5,6,7,8, 9,11,10 |
12,13,14 |
15,16 |
Ung thư 1/3 giữa |
3,4,5,6,1 |
7,8,9, 11,2,10 |
12,13,14 |
15,16 |
Ung thư 1/3 dưới (hang môn
vị) |
3,4,5,6 |
1,7,8,9 |
11,12,13, 14,2,10 |
15,16 |
Phân loại Nhật Bản dựa theo vị
trí của 16 nhóm hạch được xếp thành 4 loại từ N1 đến N4, mỗi loại tương ứng với
mỗi kiểu nạo vét hạch. Nạo vét hạch D1 cho N1, D2 cho N2, D3 cho N3. Nạo vét hạch
D1, D2 hay D3 không phải tương ứng hoàn toàn với các chặng 1, chặng 2 hay chặng
3 mà còn tùy thuộc vào vị trí u ở 1/3 trên , 1/3 giữa hay 1/3 dưới.
3.3.
Phân loại theo UICC
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh số lượng tuyệt đối của hạch
di căn là một yếu tố tiên lượng độc lập, đáng tin cậy và khách quan, có ý nghĩa
tiên lượng trong bệnh UTDD. Trên cơ sở đó UICC năm 1997 đưa ra phân loại dựa
trên số lượng hạch di căn như sau :
pNo : không có di căn hạch
pN1 : Di căn từ 1-6 hạch
pN2 : Di căn từ 7-15 hạch
pN3 : Di căn từ 16 hạch trở lên.
Tuy nhiên phân loại này cũng gặp phải khó khăn, đó là phải
lấy được ít nhất 15 hạch để xét nghiệm vi thể mới đánh giá chính xác được giai
đoạn di căn hạch. Vì vậy năm 2002 UICC khẳng định lại cách phân loại theo số lượng
hạch di căn của UICC năm 1997 và nhấn mạnh nếu áp dụng cách phân loại này thì số
lượng hạch nạo vét và xét nghiệm vi thể tối thiểu phải là 15 hạch.
3.4.
Phân loại giai đoạn UTDD theo Duckes
Năm 1994 lần đầu tiên Adachi đã áp dụng phân loại của Duckes
vào phân loại UTDD như sau
Duckes A : ung thư niêm mạc, dưới niêm mạc hoặc vào
lớp cơ.
Duckes B : ung thư lan tới lớp thanh mạc
Duckes Ca: di căn từ 1-6 hạch
Duckes Cb: di căn từ 7 hạch trở lên
Qua nghiên cứu tác giả đưa ra kết luận: phân loại giai đoạn
UTDD theo Duckes cho thấy số lượng hạch di căn ung thư có liên quan đến tính chất
của khối u và thời gian sống sau mổ. Cách phân loại này đơn giản và có giá trị
trong phân loại giai đoạn UTDD. Tuy nhiên trên thực tế có những trường hợp ung
thư giai đoạn T4 nhưng không di căn hạch thì không phân loại được theo Duckes.
Đây chính là phân loại của phân loại này.
4. Đặc
điểm giải phẫu bệnh của UTDD
4.1. Đặc
điểu giải phẫu bệnh học của thương tổn UTDD
Trên 95% UTDD xuất phát từ các biểu mô tuyến của dạ dày
(ung thư biểu mô tuyến: Adenocarcinoma). Trong nghiên cứu 573 trường hợp cắt dạ
dày do ung thư (1993-1997) của Trịnh Hồng Sơn, ung thư biểu mô tuyến chiếm
95,7%. Theo Katherine D Crew thì tỷ
lệ ung thư biểu mô tuyến là > 90%. Đa số các trường hợp UTDD khi được phát
hiện thì đã ở giai đoạn muộn của bệnh, gọi đó là “ung thư dạ dày tiến triển”.
Tiên lượng đối với loại ung thư này rất kém, dù có mổ cắt được khối u.
UTDD gồm có 2 giai đoạn UTDD sớm và UTDD tiến triển. Thực
chất đó chính là 2 quá trình sớm và muộn của một bệnh nhân mà thôi
4.1.1.
Ung thư dạ dày sớm
Thuật ngữ ung thư dạ dày sớm
(Early gastric cancer) được các tác giả Nhật Bản là Nakamara và Shirakahe đưa
ra năm 1960, dùng để chỉ những tổn thương u ác tính khu trú ở bề mặt niêm mạc
và dưới niêm mạc, ung thư chưa lan đến lớp cơ, lớp thanh mạc, có hay không có sự
di căn hạch.
Phát hiện UTDD ở giai đoạn sớm
rất quan trọng trong tiên lượng bệnh, đặc biệt là khả năng sống 5 năm sau mổ. Rất
nhiều nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy tỷ lệ sống > 5 năm sau mổ ở bệnh nhân
UTDD sớm > 90%, đặc biệt tỷ lệ sống > 10 năm đang ngày càng được cải thiện.
Những thương tổn ung thư dạ
dày giai đoạn sớm được đánh giá theo phân loại dạng 0, tức là coi ung thư dạ
dày sớm là dạng đầu tiên, tiếp theo các dạng của ung thư dạ dày tiến triển. Việc
gộp các dạng này với nhau Theo hiệp hội nội soi Nhật Bản, thương tổn ung thư
này được phân loại như sau:
U lồi dạng Polypoid
(Protruded type) T0 I
U bề mặt (Superfacial): gồm 3
loại:
U nổi gồ lên (Superfacial elevated type) T0 IIa
U phẳng (Flat type) T0
IIb
U lõm (Superfacial
depressed type) T0 IIc
U thể loét (Excavated type) T0 III
Hình ảnh vi thể của UTDD sớm
cũng giống như UTDD tiến triển, > 95% UTDD sớm thuộc loại ung thư biểu mô
tuyến (Adenocarcinoma). Điều này càng chứng tỏ UTDD sớm là giai đoạn đầu của
UTDD tiến triển, và ngược lại mọi UTDD tiến triển đều phát sinh từ ung thư khởi
đầu trong niêm mạc dạ dày.
4.1.2.
Ung thư dạ dày tiến triển
Thuật ngữ này dùng để chỉ các
ung thư dạ dày đã xâm lấn sâu xuống thành dạ dày, tới quá lớp dưới niêm mạc,
xuyên hết thành dạ dày ra tới thanh mạc và xâm lấn các tạng gần kề. Tiên lượng
của loại ung thư này rất kém, thời gian sống > 5 năm chỉ khoảng 20-30%. Ở Việt
Nam, đa số bệnh nhân đến viện trong bệnh cảnh của UTDD tiến triển, mặc dù đã có
nhiều tiến bộ trong chẩn đoán, nội soi và điều trị hóa chất bổ trợ.
Hình ảnh đại thể của UTDD tiến triển
Phân loại hình ảnh đại thể của UTDD tiến triển theo
Borrmann cho đến nay vẫn được áp dụng rộng rãi nhất. Gồm có 4 dạng:
Dạng 1: Thể sùi: U sùi lồi vào trong lòng dạ dày cứng, mặt
không đều. Tại đỉnh và trung tâm khối u có loét dễ chảy máu khi chạm vào.
Dạng 2: Thể loét không xâm lấn: Loét đào sâu vào thành dạ
dày, hình chôn bát, bờ có thể gồ cao, nền ổ loét có bờ sắc nham nhở, thành ổ
loét có thể nhẵn hoặc thẳng đứng.
Dạng 3: Thể loét xâm lấn: loét không rõ giới hạn do bờ ổ
loét lẫn niêm mạc bên cạnh, xâm lấn niêm mạc xunh quanh do đáy ổ loét xâm nhiễm
cứng xung quanh.
Dạng 4: Thể thâm nhiễm: Tổn thương không có giới hạn rõ,
niêm mạc có thể không đều, sần ổ loét nhỏ trên bề mặt mất nhẵn bóng, ít khi tổn
thương khu trú ở một vùng dạ dày mà thương lan rộng. Có khi toàn bộ dạ dày bị
xâm lấn: thành dày, cứng co lại như một ống cứng. Khi nội soi dạ dày phải sinh
thiết nhiều mảnh và nhắc lại nhiều lần để xác định chẩn đoán vi thể.
Trên thực tế, các tổn thương loét, sùi, thâm nhiễm thường
xen kẽ với các mức độ khác nhau, và đôi khi khó xếp loại. Do vậy, cần căn cứ
vào tổn thương nào là chính để xếp loại
Hình ảnh vi thể của UTDD tiến triển. Có 2 cách phân loại được áp
dụng rộng rãi nhất là phân loại của Lauren (1965) và của tổ chức Y tế Thế giới
(WHO 1997).
Phân loại của
Lauren: Ung thư biểu mô tuyến dạ dày có 2 loại chính, có ý nghĩa lâm sàng về
điều trị và tiên lượng:
- Ung thư biểu mô dạng ruột: dễ dàng phân biệt với ung
thư biểu mô dạng lan toả bởi sự hình thành tuyến. Sự phát triển của các tuyến sẽ
quyết định mức độ biệt hoá cao hay biệt hoá thấp của khối u.
- Ung thư biểu mô dạng lan toả: có xu hướng phát triển rộng,
có tiên lượng xấu hơn dạng ruột. Loại ung thư này gồm những tế bào u không kết
dính, xâm lấn lan toả vào mô đệm của dạ dày và ăn sâu vào thành dạ dày mà không
có hình thành tuyến. So với ung thư biểu mô dạng ruột, dạng lan toả ít liên
quan đến ảnh hưởng của môi trường, thường xảy ra ở bệnh nhân trẻ và tiên lượng
xấu. Ung thư tế bào nhẫn được xếp vào nhóm lan toả.
Phân loại của WHO: Gồm 5 loại:
- Ung thư biểu mô tuyến: (tương ứng với dạng ruột trong
phân loại của Lauren):
+ Ung thư biểu
mô tuyến nhú: tế bào u sắp xếp thành hình tuyến có nhú chia nhánh, có trục liên
kết phát triển vào trong lòng tuyến. Tế bào u hình trụ hay vuông tương đối đều
nhau, chúng cũng có thể có biểu hiện đa hình thái tế bào và nhân, có thể gặp
hình ống tuyến.
+ Ung thư biểu
mô tuyến ống: các tế bào U sắp xếp tạo thành hình ống tuyến là chính. Khi cắt
ngang tuyến có kích thước khác nhau, lòng tuyến có thể giãn rộng thành nang. Tế
bào u hình trụ hay hoặc hình vuông, khi tuyến giãn rộng chứa chất nhày, tế bào
trở nên thấp dẹt. Quanh các tuyến ung thư thường có mô liên kết bao bọc.
+ Ung thư biểu mô tuyến nhày: Mô ung thư
có một lượng lớn chất nhày. Chất nhày chứa đầy lòng tuyến làm lòng tuyến giãn rộng
và tràn vào cả mô đệm.
+ Ung thư tế
bào nhẫn: Tế bào ung thư có thể tập trung thành từng đám nhưng thường tách rời
nhau và phân tán trong bể chất nhày do tế bào nhẫn chế ra. Tế bào u tròn, chất
nhày đẩy lệch nhân về một phía giống như chiếc nhẫn.
- Ung thư biểu mô không biệt hoá: Tế bào ung thư không sắp xếp tạo thành hình tuyến, chúng tập
trung thành đám lớn hay thành ổ, thành bè hay phân tán rải rác trong mô đệm có
tổ chức liên kết xơ phát triển. Các tế bào u có thể gợi lại tế bào biểu mô dạ
dày hoặc khác biệt hoàn toàn.
- Ung thư biểu mô tuyến vảy: Hiếm gặp, cấu trúc gồm mô tuyến và mô tế bào
vảy. Tuyến do các tế bào hình trụ hoặc hình vuông sắp xếp tạo thành. Mô tế bào
vảy quây quanh các tuyến gồm nhiều hàng lớp.
- Ung thư biểu mô tế bào vảy: Rất hiếm gặp. Tế bào u tập
trung thành từng đám, giống biểu mô lát của biểu bì.
- Ung thư không xếp loại: Ung thư không thể xếp vào các
thể trên do tế bào u và cấu trúc u không giống các dạng đã mô tả.
ĐIỀU TRỊ
Cho đến nay điều trị phẫu thuật là biện pháp điều
trị chính đối với UTDD. Các phương pháp khác như hóa trị, xạ trị, điều trị
đích… được coi là phương pháp bổ trợ trong trong phẫu thuật hoặc áp dụng cho những
bệnh nhân không còn khả năng phẫu thuật hay phẫu thuật không triệt để. Mỗi
phương pháp phẫu thuật có chỉ định nhất định, phẫu thuật viên cần nắm vững các
chỉ định của từng phương pháp phẫu thuật cũng như kết hợp các phương pháp điều
trị.
1. Phẫu
thuật
1.1. Phẫu thuật tạm thời (palliative surgery)
UTDD tốt nhất vẫn là cắt bỏ
khối u nguyên thủy vì vậy trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải rất cân nhắc việc
khối u có còn khả năng cắt bỏ hay không ngay cả khi có xâm lấn các tạng lân cận,
việc này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của phẫu thuật viên.
Chỉ định :
-
Khối u xâm lấn toàn bộ rốn gan
-
Khối u xâm lấn chắc cào vùng đầu tụy,
không thể phẫu thuật cắt khối tá tụy kèm theo.
-
Khối u xấm lấn bó mạch mạc treo tràng
trên
-
Khối u xâm lấn toàn bộ gốc mạc treo ruột
non hoặc gốc mạc treo đại tràng ngang
-
Khối u đã di căn xa như : di căn
gan, di căn phúc mạc ở những bệnh nhân có thể trạng già yếu.
Phương pháp :
Nối vị tràng hoặc mở thông hỗng tràng nuôi ăn.
1.2. Phẫu thuật triệt để
Năm 1986, hội nghị quốc tế về
UTDD tại Haiwaii gồm 3 tổ chức : UICC (hiệp hội chống ung thư thế giới),
AJCC (hiệp hội chống ung thư Mỹ) và JRSCG (hội nghiên cứu ung thư Nhật Bản) đã
đưa ra quy ước thống nhất về cắt dạ dày triệt để dựa trên kết quả mô bệnh học về mép cắt dạ dày, các hạch
lympho, các cơ quan bị xâm lấn và di căn.
Một phẫu thuật được gọi là
triệt để phải có các điều kiện sau :
. Cắt bỏ được một phần hay
toàn bộ dạ dày mà diện cắt trên và dưới u không còn tế bào ung thư.
. Lấy bỏ toàn bộ hệ thống hạch
bạch huyết di căn.
. Lấy bỏ hết tổ chức bị xâm lấn
và di căn.
- Các
phương pháp phẫu thuật: cắt đoạn dạ dày hoặc cắt toàn bộ dạ dày kèm mạc nối lớn, nạo vét
hạch (D1, D2, D3, D4)
- Nạo
vét hạch được gọi
là D1, D2, D3, D4 tương ứng với vị trí ung thư và các nhóm hạch được lấy bỏ
theo Kodama Nhật Bản thể hiện ở bảng dưới đây.
Vị trí ung thư |
N1 |
N2 |
N3 |
N4 |
Ung thư 1/3 dưới (hang môn vị) |
3,4,5,6 |
1,7,8,9 |
11,12,13,14,2,10 |
15,16 |
Ung thư 1/3 giữa |
3,4,5,6,1 |
2,7,8,9,10,11 |
12,13,14 |
15,16 |
Ung thư 1/3 trên (tâm phình vị) |
1,2,3,4 |
5,6,7,8,9,10,11 |
12,13,14 |
15,16 |
Nạo vét |
D1 |
D2 |
D3 |
D4 |
- Có thể
kết hợp cắt các tạng nếu có
kèm theo xâm lấn và di căn (cắt đoạn đại tràng, cắt lách thân đuôi tụy, cắt
gan, cắt buồng trứng...)
- Cắt bỏ
tổn thương dạ dày qua nội soi (Laparoscopic gastrectomy) trong UTDD sớm được
thực hiện lần đầu tiên vào năm 1991. Sau đó nhiều kỹ thuật nội soi trong điều
trị UTDD đã được nghiên cứu và ứng dụng, như cắt tổn thương hình chêm qua nội
soi (Laparoscopic wedge resection: LWR), cắt bỏ niêm mạc qua nội soi
(Intragastric mucosa resection: IGMR). Những kỹ thuật này tuy đã áp dụng nhiều ở
Nhật và các nước khác, nhưng vẫn còn mới mẻ tại Việt Nam. Theo qui trình điều
trị UTDD được xuất bản bởi hiệp hội UTDD Nhật Bản (JGCA), chỉ định cắt bỏ khu
trú tổn thương tại chỗ là: (1) Những tổn thương ung thư niêm mạc không thể cắt
bỏ qua nội soi đường miệng, (2) ung thư niêm mạc kích thước < 2cm và không
có loét tại chỗ, (3) ung thư dưới niêm mạc không có di căn hạch.
- Cắt dạ
dày phối hợp với CHIP
Chỉ định :
. UTDD có di căn phúc mạc từ
giai đoạn I-IV
. Không có di căn gan, phổi
và các di căn khác ngoài ổ bụng
. Không có di căn hạch lớn
sau phúc mạc hoặc hạch lớn của tiểu khung
. Không có suy chức năng
gan-thận
. Cơ sở có điều kiện để tiến
hành phẫu thuật này
Phương pháp
. Cắt dạ dày bán phần hoặc
toàn bộ
. Lấy bỏ toàn bộ phúc mạc tạng
có di căn : phúc mạc phủ vòm hoành 2 bên, phúc mạc thành bụng bên, phúc mạc
douglas, phúc mạc phủ mạc treo đại tràng, ruột non thành một khối
. Điều trị cisplastin 5mg/kg
trong mổ ở nhiệt độ cao 43°C theo chu trình kín, có làm nóng hóa chất ở bên
ngoài cơ thể, trong thời gian 90 phút.
. Theo dõi nhiệt độ trong ổ bụng
luôn đảm bảo ở 43°C nơi đưa hóa chất vào.
Năm 1988 việc điều trị hóa chất
trong ổ bụng đã được thực hiện cho thấy thời gian sống 3 năm sau mổ những trường
hợp ung thư tiêu hóa di căn phúc mạc giai đoạn I-II khoảng 20%, di căn giai đoạn
III-IV không có trường hợp nào sống trên 1 năm. Năm 1995 Sugabarker là người đầu
tiên mổ tả điều trị hóa chất trong mổ cùng với việc lấy bỏ toàn bộ phúc mạc di
căn. Cho đến nay với những hợp ung thư tiêu hóa di căn phúc mạc mà không điều
trị CHIP thì thời gian sống tối đa khoảng 7-18 tháng.
1.3. Thái
độ điều trị phẫu thuật UTDD cho tới nay có thể tóm tắt như sau
- Đối với UTDD 1/3 trên, 1/3
dưới hay 1/3 giữa chỉ cần nạo vét đến D2 là đủ, chỉ nạo vét hạch mở rộng (D3,
D4) khi có hiện tượng di căn ỏ nhóm hạch này
. Nạo vét D2 đối với ung thư
1/3 trên: lấy toàn bộ các nhóm hạch từ 1-11
. Nạo vét D2 đối với ung thư
1/3 giữa: lấy toàn bộ các nhóm hạch từ 1-11
. Nạo vét D2 đối với ung thư
1/3 dưới: lấy toàn bộ các nhóm 1, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9
- Ung thư vùng thân dạ dày, vùng tâm phình vị: cắt
dạ dày đơn thuần ở người lớn tuổi hoặc khi khối u không qua thanh mạc, hoặc khi
khối u ở phần đứng của bờ cong nhỏ.
- Cắt dạ dày toàn bộ kèm cắt lách khi khối u ở
tâm phình vị, bờ cong lớn, khi u đã lan ra thanh mạc hoặc khi có u di căn hạch
vùng rốn lách (sinh thiết tức thì).
- Cắt dạ dày toàn bộ kèm cắt lách, cắt thân đuôi
tụy khi thật cần thiết (nhu mô tụy bị xâm
1.4. Hóa chất trong điều trị UTDD
Phẫu thuật triệt căn giữ vai
trò hàng đầu trong điều trị ung thư dạ dày. Mặc dù trong những năm qua đã có
nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và phẫu thuật nhưng vẫn còn khoảng 50-70% bệnh
nhân UTDD tái phát và tử vong trong vòng 5 năm sau phẫu thuật triệt để tại các
nước phương tây. Những tiến bộ trong lĩnh vực hóa trị cùng với những hiểu biết
ngày càng sâu hơn về sinh học phân tử, chu kỳ tế bào đối với tế bào ung thư sẽ
đem đến những hy vọng mới đối với bệnh lý này. Một nhược điểm của hóa chất là
chúng không có khả năng phân biệt được đâu là tế bào lành đâu là tế bào ung thư.
Ví dụ thuốc có tác dụng lên tế bào ung thư có đặc tính phân bào thì cũng sẽ ảnh
hưởng đến các tế bào lành có đặc tính phân bào nhanh như tủy xương, niêm mạc đường
tiêu hóa…
1.4.1.
Hóa trị
bổ trợ trước mổ (neo-adjuvant)
Hóa trị bổ trợ trước mổ có một
số lợi điểm như sau : tính dung nạp cao, hiệu quả đối với các di căn âm thầm,
giảm giai đoạn lâm sàng, làm tăng khả năng phẫu thuật triệt để, làm nhỏ bớt khối
u, giúp các biện pháp điều trị tại chỗ khác được thực hiện dễ dàng hơn hoặc có
thể bảo tồn các cơ quan bộ phận khác lân cận khối u dễ dàng hơn.
Nghiên cứu MAGIC so sánh ngẫu
nhiên trên 503 bệnh nhân UTDD, so sánh phẫu thuật đơn thuần với phẫu thuật kết
hợp hóa trị trước và sau mổ cho thấy nhóm bệnh nhân được điề trị hóa chất trước
và sau mổ có tỷ lệ phẫu thuật triệt để cao hơn nhóm không được điều trị hóa chất
trước mổ có ý nghĩa thống kê (79% so với 69%, p=0,018) và tỷ lệ sống 5 năm
không bệnh và sống thêm toàn bộ của nhóm có điều hóa chât trước mổ tốt hơn nhóm
không được điều trị hóa chất trước mổ.
1.4.2.
Điều trị
hóa chất bổ trợ sau mổ (adjuvant)
Điều trị hóa chất bổ trợ sau
phẫu thuật UTDD hiện nay vẫn chưa khẳng định được giá trị chắc chắn, vai trò
cũng như lợi ích của hóa trị bổ trợ vẫn không được chứng minh bởi rất nhiều
nghiên cứu. Một số tác giả cho thấy hóa chất có hiệu quả phần nào trong điều trị
bổ trợ, tuy nhiên cũng có nhiều nghiên cứu chứng minh điều ngược lại
Một số nghiên cứu hồi cứu cho
thấy hóa trị bổ trợ cải thiện 20-28% tỷ lệ sống thêm cho bệnh nhân UTDD sau phẫu
thuật nhưng không đủ chứng cứ để đưa ra khuyến cáo sử dụng thường xuyên.
1.4.3.
Hóa chất
điều trị UTDD giai đoạn muộn
UTDD giai đoạn muộn bao gồm những ung thư xâm lấn không thể lấy bỏ
được và những thể ung thư có di căn xa. Các nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên cho
thấy hóa trị với UTDD giai đoạn muộn có hiệu quả làm tăng thời gian sống thêm
so với điều trị và chăm sóc nội khoa đơn thuần. Các nghiên cứu cũng cho thấy
hóa trị liệu có thể làm giảm bớt sự phát triển của khối u, làm giảm thể tích khối
u để sau đó có thể từ chỗ không phẫu thuật được trở thành phẫu thuật cắt bỏ được.
Cho đến nay có rất nhiều hóa
chất khác nhau được áp dụng trong điều trị UTDD có thể là đơn hóa trị liệu hoặc
đa hóa trị liệu. Tuy nhiên chưa có một công thức cụ thể nào được coi là chuẩn
trong điều trị UTDD. Đã có rất nhiều công thức được đưa ra, nhưng không có một
công thức nào tỏ ra nổi trội hơn hẳn. Vì vậy trước một bệnh nhân cụ thể cần phải
căn cứ vào nhiều yếu tố để có thể đưa ra một phác đồ điều trị phù hợp.
1.4.4.
Đơn hóa trị liệu (Single-Agent Chemotherapy)
1.4.4.1. Nhóm Fluorinated Pyrimidines
-
5 FU
-
UFT (5FU và uracil)
-
Capecitabine
(Xeloda)
1.4.4.2. Nhóm Antibiotics
-
Doxorubicin
hydrochloride
-
Epirubicin
hydrochloride (Pharmorubicin)
1.4.4.3. Nhóm Heavy Metals
-
Cisplatin
-
Nhóm Taxanes
-
Paclitaxel
-
Docetaxel (Taxotere)
1.4.4.4. Nhóm Camptothecans
-
Irinotecan
hydrochloride
1.4.5.
Một số
công thức phối hợp đa hóa chất
1.4.5.1. Công thức FAM
Công thức này bao gồm :
5FU, Doburubicin và Mitomycin, chu kỳ 56 ngày, công thức này áp dụng từ những
nam 1980 sau công bố của Mac Donald J.C và cộng sự với tỷ lệ RO là 40%, tuy
nhiên thời gian sống thêm trung bình chỉ khoảng 7 tháng.
André
M. Murad cho thấy công thức này tốt hơn khi sử dụng
5-FU đơn thuần hoặc 5-FU phối hợp với doburubicin về thời gian sống không bệnh
và thời gian sống trung bình sau mổ.
1.4.5.2. Công thức FAMTX
Chỉ định : sau mổ UTDD
được coi là palliative
Công thức : 5FU,
Doborubicin, Methotexate và Leucovorin với chu kỳ 28 ngày và 6 đợt. Công thức
có tỷ lệ đáp ứng 40% và thời gian sống thêm trung bình là khoảng 10,5 tháng
Sau những năm 1990 vì độc
tính của công thức FAM thì FAMTX được coi là công thức chuẩn đối với ung thư dạ
dày và được sử dụng rộng rãi. Wils JA tiến hành nghiên cứu phase III ở nhóm 1 gồm
103 bệnh nhân UTDD sử dụng công thức FAM và nhóm 2 gồm 105 bệnh nhân sử dụng
công thức FAMTX nhận thấy : tỷ lệ đáp ứng thuốc ở nhóm 1 và 2 tương ứng là
9% và 41%, thời gian sống sau mổ của 2 nhóm tương ứng là 7,2 tháng và 10,5
tháng.
1.4.5.3.Công thức EAP
Chỉ định : áp dụng cho
những trường hợp sau mổ UTDD được coi là palliative.
Công thức : Etopiside,
Doxorubicin và Cisplatin. Chu kỳ 21-28 ngày. Công thức này được coi như là có
tác dụng nhất sau nghiên cứu của Preuser.P và cộng sự . Tỷ lệ R0 đạt 51% trong đó
RC là 15%. Tuy nhiên những nghiên cứu về sau không khẳng định được kết quả
khích lệ và độc tính của công thức này cao và không được khuyến cáo sử dụng rộng
rãi kể từ những năm cuối của thập kỷ 1990.
1.4.5.4.Công thức ECF
Chỉ định : áp dụng cho
điều trị bổ trợ trước mổ và điều trị sau mổ
Công thức: Epirubicin 50mg/m2iv, Cisplatin
60mg/m2 iv, 5-FU 200 mg/m2/D với chu kỳ 21 ngày và 8 đợt.
Nghiên cứu MAGIC thực hiện trên 2 nhóm bệnh nhân: nhóm 1 được điều trị ECF trước
và sau mổ 3 đợt và nhóm chỉ phẫu thuật đơn thuần cho thấy: tỷ lệ sống 5 năm sau
mổ không tái phát của nhóm 1 là 35% và nhóm 2 là 25%.
JS Waters nghiên cứu trên 274 bệnh nhân UTDD từ năm 1992
đến năm 1995 được chia làm 2 nhóm: nhóm 1 sử dụng công thức FAMTX và nhóm 2 sử
dụng công thức ECF cho thấy: tỷ lệ đáp ứng thuốc của 2 nhóm tương ứng là 21% và
46%, thời gian sống trung bình sau mổ là 6,1 tháng và 8,7 tháng, thời gian sống
trung bình sau 2 năm của 2 nhóm này là 5% và 14%. Do công thức ECF có tỷ lệ dap
ứng thuốc cao nên đã được áp dụng vào điều trị bổ trợ trước mổ kể từ sau nghiên
cứu của JS Waters.
Năm 2006 David cunningham nghiên cứu
ứng dụng công thức ECF cho những trường hợp ung thư dạ dày, ung thư thực quản
1/3 dưới di căn, áp dụng truyền 3 đợt trước mổ và 3 đợt hóa chất sau mổ trên
253 bệnh nhân và 250 trường hợp chỉ phẫu thuật đơn thuần thấy kích thước khối u
nhỏ đi, giảm tỷ lệ di căn hạch, tỷ lệ sống
năm sau mổ ở nhóm cao hơn ở nhóm
2 có ý nghĩa thống kê. Khi so sánh với công thức FAMTX thấy công thức ECF có cải
thiện thời gian sống sau mổ và tỷ lệ đáp ứng thuốc cao hơn, đồng thời tác dụng
phụ của thuốc ở mức chấp nhận được.
1.4.5.5. Công thức ELF
Công thức: Leucovorin,
Etoposide và 5FU. Công thức này đã được chứng minh có hiệu quả tương đương công
thức EAP nhưng độc tính lại ít hơn. Tỷ lệ đáp ứng của UTDD muộn đối với công thức
này khoảng 50%, thời gian sống trung bình khoảng 11 tháng. Theo nghiên cứu của
Đỗ Trọng Quyết thấy thời gian sống sau mổ
của nhóm điều trị theo công thức ELF dài hơn nhóm phẫu thuật đơn thuần là 6
tháng.
1.4.5.6. Công thức PELF
Chỉ định : UTDD không có
khả năng cắt bỏ hoặc UTDD di căn
Công thức: cisplatin 40mg/m2
tĩnh mạch trong 30 phút ngày thứ nhất và ngày thứ 5, epirubicin 30mg/m2 tĩnh mạch
nhanh ngày thứ nhất và ngày thứ 5, leucovorin 100mg/m2 sau khi tiêm 5-FU 300mg/m2
ngày thứ nhất đến ngày thứ 4 với chu kỳ 3 tuần và 6 đợt.
G. Cocconi nghiên cứu trên 200 bệnh nhân được chia làm 2
nhóm từ năm 1993 đến năm 1999 : nhóm 1 sử dụng công thức FAMTX và nhóm 2 sử
dụng công thức PELF thấy : tỷ lệ đáp ứng thuốc của nhóm 1 và nhóm 2 tương ứng
là 22% và 39%, thời gian sống trung bình sau mổ 7,7 tháng và 8,1 tháng. Về thời
gian sống thêm sau mổ của 2 công thức này không có sự khác biệt. Tuy nhiên khi
tác giả nghiên cứu tỷ lệ sống sau 12 tháng và 24 tháng thì thấy tỷ lệ này cao
hơn ở nhóm sử dụng công thức PELF.
1.4.5.7. Công thức FAP
Chỉ định : UTDD không
còn khả năng cắt bỏ
Hayakawa tiến hành nghiên cứu
trên 2 nhóm bệnh nhân UTDD không có khả năng cắt bỏ khối u và điều trị theo 2
công thức khác nhau : nhóm 1 điều trị theo công thức FEP (UFT 400mg/m2
hàng ngày, etoposide 50mg/m2 và CDDP 30mg/m2 ngày thứ 1,8 và 15), nhóm 2 điều
trị theo công thức FAP (UFT 400mg/m2 hàng ngày, adriamycin 10mg/m2 và CDDP ngày
thứ 1,8 và 15) thấy tỷ lệ đáp ứng của nhóm 1 và nhóm 2 là 28,5% và 33,3%, thời
gian sống trung bình của nhóm 1 và nhóm 2 là 4,5 và 6,5 tháng.
Shimakawa năm 2008, nghiên cứu
sử dụng công thức FAP điều trị 2 đợt trước mổ cho 27 bệnh nhân ung thư thực quản
từ giai đoạn III-IV thấy tỷ lệ đáp ứng là 55,6%, tỷ lệ cắt được khối u là
85,2%. Trường hợp khối u không còn khả năng cắt bỏ, thời gian sống trung bình 6
tháng, nhóm có đáp ứng với công thức thì thời gian sống trung bình là 60 tháng.
1.4.5.8. Công thức ECX
Chỉ định : UTDD tiến triển
Công thức: Epirubicin 50mg/m2iv, Cisplatin
60mg/m2iv, Capecitabine 625mg/ m2 (Xeloda) với chu kỳ ít
nhất 21 ngày và 6-8 đợt, tổng thời gian điều trị từ 4-6 tháng. Epirubicin và
cisplatin có thể được truyền qua đường vein ngoại vi, tĩnh mạch trung tâm, qua
PICC line hoặc qua buồng tiêm truyền (portacath). Epirubicin được pha với nước
muối sinh lý, Cisplatin được truyền tĩnh mạch từ 2-4 giờ (tráng vein sau khi
dùng). Xeloda 150mg hoặc 500mg, ngày uống 2 lần, sau ăn sáng và sau ăn tối.
Jina Yun năm 2010
nghiên cứu trên phase II gồm 47 bệnh nhân UTDD tiến triển được điều trị bằng
công thức CX (cisplatin/cabecitabine) và 44 bệnh nhân được điều trị bằng công
thức ECX thấy: không có sự khác biệt giữa 2 công thức về độc tính của thuốc, tỷ
lệ đáp ứng thuốc của 2 công thức cũng không có sự khác biệt (38% và 37%), thời
gian sống thêm toàn bộ cũng không có sự khác biệt
1.4.5.9. Công
thức EOX
Chỉ định : UTDD tiến triển,
di căn hạch hoặc di căn xa
Công thức: Epirubicin 50mg/m2iv,Oxaliplatin130mg/m2iv,Capecitabine
625mg/m2, với chu kỳ ít nhất là 3 tuần và 6 cure, có thể tăng lên 8
cure, tổng thời gian khoảng 6 tháng. Epirubicin và Oxaliplatin có thể được truyền
qua đường vein ngoại vi, tĩnh mạch trung tâm, qua PICC line hoặc qua buồng tiêm
truyền (portacath). Trong nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng gọi là REAL 2 đã xem
xét lại 4 công thức khác nhau gồm ECF, EOF, ECX và EOX thấy rằng: oxaliplatin
có tác dụng tốt như cisplatin khi sử dụng cùng với epirubicin và chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân của cả 3 công thức này là như nhau. Nhưng độc tính của EOX lại
ít hơn.
K Sumpter nghiên cứu
tại 18 trung tâm ung thư tại Anh trên 198 bệnh nhân UTDD tiến triển từ năm
2000-2002 được sử dụng ngẫu nhiên 4 công thức khác nhau gồm: ECF (53 bệnh
nhân), EOF (55 bệnh nhân), ECX (48 bệnh nhân) và EOX (48 bệnh nhân) cho thấy tỷ
lệ đáp ứng thuốc toàn bộ hoặc một phần tương ứng của 4 công thức này là: 31%,
39%, 35% và 48%. Tỷ lệ bệnh tiến triển ở từng công thức tương ứng là 27%, 20%,
24%, và 15%.
David Cunningham
nghiên cứu trên 1002 bệnh nhân UTDD, ung thư thực quản biểu mô tuyến tại
Anh và Australia được sử dụng 4 công thức khác nhau gồm: ECF (263 bệnh nhân),
ECX (250 bệnh nhân), EOF (245 bệnh nhân) và EOX (244 bệnh nhân) cho thấy thời
gian sống sau mổ của 4 nhóm bệnh nhân này lần lượt là 9,9 tháng, 9,9 tháng, 9,3
tháng và 11,2 tháng. Tỷ lệ sống 1 năm sau mổ lần lượt là 37,7%, 40,8%, 40,4% và
46,8%. Nghiên cứu này cũng cho thấy thời gian sống sau mổ của nhóm sử dụng công
thức EOX cao hơn nhóm sử dụng công thức ECF có ý nghĩa thống kê. Khi so sánh
tác dụng phụ của capecitabine và fluorouracil thì thấy như nhau.
1.4.5.10. Công thức DCF
Chỉ định: Công thức này thường được dùng để điều trị ung
thư vùng đầu, mặt và cổ. Tuy nhiên cũng được áp dụng cho ung thư dạ dày
Công thức này bao gồm: Docetaxel 75mg/m2 , Cisplatin
75mg/m2 dùng trong ngày thứ nhất, 5-FU 750mg/m2 dùng từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 5 với chu kỳ
21 ngày và 6 đợt. Công thức này thường được dùng để điều trị ung thư vùng đầu,
mặt và cổ. Tuy nhiên cũng được áp dụng cho ung thư dạ dày. Nhiều nghiên cứu cho
thấy nó có tác dụng tốt hơn so với công thức CF. Độc tính của công thức này
cũng tương đối cao.
1.4.5.11. Công thức
irinotecan và cisplatin
Chỉ định: UTDD tái phát hoặc UTDD không còn khả
năng cắt bỏ.
Công thức (có 2 công thức được sử dụng): công thức1 gồm
Irinotecan 70mg/m2 ngày thứ 1 và ngày thứ 15 và cisplatin 80mg/m2 ngày thứ 1 cứ
mỗi 4 tuần. Công thức 2 gồm Irinotecan 60mg/m2 ngày thứ nhất và cisplatin
30mg/m2 ngày thứ 1 cứ mỗi 2 tuần.
Sakamoto cho thấy kết quả như sau: tỷ lệ đáp ứng của công
thức 1 và công thức 2 là 26% và 27%, thời gian sống thêm không bệnh toàn bộ là
3,6 và 4,1 tháng, thời gian sống thêm trung bình là 9,5 và 10,1 tháng. Nhưng tỷ
lệ độc tính của công thức 1 cao hơn hẳn so với công thức 2 ( giảm bạch cầu
tương đương của công thức 1 và công thức 2 là 74 và 44%, giảm bạch cầu đa nhân
là 81% và 53%, thiếu máu là 45% và 28%, các tác dụng phụ khác của thuốc trong
công thức 1 cũng cao hơn công thức 2).
1.4.5.12. Công thức EOF
Chỉ định: thường áp dụng đối với ung thư thực quản, ung
thư đoạn nối thực quản-dạ dày và ung thư dạ dày giai đoạn muộn
Công thức: Epirubicin 50mg/m2 iv, Oxaliplatin
130mg/m2 iv, 5-FU 200mg/m2/D, chu kỳ 21 ngày với 6 đợt,
có thể tăng lên trên 6 đợt. Tổng thời gian điều trị 4-5 tháng. Trong nghiên cứu
thực nghiệm phase II cho thấy tỷ lệ đáp ứng của công thức EOF là 40%
1.4.5.13 Công thức FLP
Chỉ định: UTDD tái phát hoặc UTDD không còn khả năng cắt
bỏ
Công thức: Leuvocorin 500mg/m2 iv ngày thứ 1,8,15,22,29,36
và 5-FU 2000mg/m2 IV ngày thứ 1,8,15,22,29,36 và Cisplatin 50mg/m2
iv ngày thứ 1,15,29 với chu kỳ 50 ngày với 4-6 đợt.
Okugawa sử dụng công thức này cho 17 bệnh nhân UTDD tái
phát hoặc trường hợp khối u không còn khả năng cắt bỏ thấy tỷ lệ đáp ứng thuốc
là 54,5%, thời gian sống trung bình 410 ngày, tỷ lệ biểu hiện độc tính của thuốc
là 70,6%.
1.4.5.14. Công thức FUFA
Chỉ định: UTDD chưa ra thanh mạc (giai đoạn
I-II), chưa có di căn hạch
Công thức: 5-FU 425 mg/m2 iv ngày
thứ 1-5, Calcium folinat 20 – 200 mg/m2 iv ngày thứ 1-5 với chu kỳ 28 ngày, 6 đợt.
1.5. Điều trị đích
Điều trị đích là dùng thuốc để kìm hãm sự tăng trưởng
và phát triển của ung thư với cơ chế cản trở các phân tử đặc hiệu trong tế bào.
Cơ chế tác dụng có thể
chia các nhóm: nhóm ức chế các gen kích thích tế bào phát triển, nhóm ức chế
tăng sinh mạch máu và nhóm tác động theo cơ chế miễn dịch.
Đối
với UTDD, thuốc điều trị đích gần đây đã được nghiên cứu là Trastuzumab. Trastuzumab
(Herceptin) là kháng thể đơn dòng có tác dụng tấn công và ngăn chặn hoạt tính
của HER2. Trastuzumab được sử dụng cho các bệnh nhân UTDD ở giai đoạn di căn
(20%). Tuy nhiên chỉ sử dụng trong các trường hợp bệnh nhân có xét nghiệm HER2
dương tính (3+). Lượng HER2 quá nhiều sẽ làm sự tăng sinh của tế bào bị mất kiểm
soát và phát triển thành tổ chức ung thư. Van Cutssem năm 2010 nghiên cứu ngẫu nhiên đa trung tâm tại châu Âu, Mỹ la tinh và tại châu Á trên
594 bệnh nhân UTDD tiến triển, tái phát, di căn và có HER2 dương tính được chia
thành 2 nhóm: nhóm 1 dùng herceptin kết hợp với hóa trị liệu, nhóm 2 dùng hóa
trị liệu đơn thuần cho thấy: tỷ lệ đáp ứng thuốc của nhóm 1 cao hơn nhóm 2
(43,7% và 34,5%), thời gian sống không bệnh toàn bộ của nhóm 1 cũng cao hơn
nhóm 2 (6,7 tháng và 5,5 tháng), thời gian sống trung bình sau mổ của nhóm 1
cũng dài hơn nhóm 2 có ý nghĩa thống kê
(nhóm 1 là 13,8 tháng, nhóm 2 là
11,1 tháng).
KẾT
LUẬN
Ung thư biểu mô dạ dày là loại ung
thư tiêu hóa thường gặp nhất tại Việt nam. Người trên 40 tuổi và chướng bụng là
các dấu hiệu cần đi khám sàng lọc ung
thư dạ dày. Nội soi dạ dày ống mềm và sinh thiết là tiêu chuẩn vàng để chẩn
đoán ung thư dạ dày. Phẫu thuật vẫn giữ vai trò quan trọng trong điều trị ung dạ
dày. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa bác sĩ phẫu thuật; bác sĩ điều trị hóa chất,
xạ trị, điều trị đích; bác sĩ dinh dưỡng để nâng cao thể trạng bệnh nhân và tìm
chỉ định điều trị hợp lý là điểm mấu chốt trong quá trình điều trị nhằm kéo dài
thời gian sống cho người bệnh bị ung thư dạ dày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội Nghiên Cứu Ung Thư Dạ Dày Nhật Bản (1998),
"Phân loại của Nhật Bản về ung thư
biểu mô dạ dày", Tài liệu khoa ngoại tổng quát bệnh viện Chợ rẫy.
2. Nguyễn
Xuân Kiên (2004), "Nghiên cứu một
số yếu tố giải phẫu bệnh liên quan đến thời gian sống thêm sau phẫu thuật ung
thư dạ dày", Luận án tiến sĩ y học.
3. Đỗ
Trọng Quyết Và Cộng Sự (2010), "Nghiên
cứu điều trị ung thư dạ dày bằng phẫu thuật có kết hợp hóa chất ELF và miễn
dich trị liệu ASLEM ", Luận án tiến sĩ y học, Đại học Y Hà Nội.
4. Trịnh
Hồng Sơn (1997), "Đặc điểm di
căn hạch bạch huyết của ung thư dạ dày 11(342)", tạp chí y học thực
hành 11(342): tr. 11-15.
5. Trịnh
Hồng Sơn (2001), "Nghiên cứu nạo
vét hạch trong điều trị phẫu thuật ung thư dạ dày.", Luận án tiến sĩ y
học.
6. Trịnh
Hồng Sơn, Đỗ Đức Vân "Bước đầu
đánh giá kết quả nạo vét hạch trong điều trị phẫu ung thư dạ dày, tạp chí thông
tin y dược, số chuyên đề ung thư, tr. 62-65", tạp chí thông tin y dược,
số chuyên đề ung thư: tr. 62-65.
7. Trịnh
Hồng Sơn, Đỗ Đức Vân "Phẫu thuật
nạo vét hạch vùng cuống gan và đuôi tụy", ngoại khoa, 29(2): tr. 1-8.
8. Trịnh
Hồng Sơn, Đỗ Đức Vân, Nguyễn Phúc Cường (1998), "Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng và giải phẫu bệnh các phương pháp điều trị
ung thư dạ dày không thuộc ung thư biểu mô tuyến", Y học thực hành, 4:
tr. 43-46.
9. Đỗ
Đức Vân (2005), " Nghiên cứu các
biện pháp chẩn đoán sớm và xây dựng phác đồ điều trị bệnh ung thư dạ dày. Đề
tài cấp nhà nước: nghiên cứu dịch tễ học, chẩn đoán, điều trị, phòng chống một
số bệnh ung thư ở Việt Nam".
10. Y.
Adachi, T. Oshiro, T. Okuyama, T. Kamakura,
và cs (1995), "A simple
classification of lymph node level in gastric carcinoma", Am J Surg,
169(4): tr. 382-5.
11. K.
D. Crew & A. I. Neugut (2006), "Epidemiology of gastric cancer", World J Gastroenterol, 12(3):
tr. 354-62.
12. D.
Cunningham, W. H. Allum, S. P. Stenning, J. N. Thompson, và cs (2006), "Perioperative
chemotherapy versus surgery alone for resectable gastroesophageal cancer",
N Engl J Med, 355(1): tr. 11-20.
13. A.
Cuschieri (1986), "Gastrectomy
for gastric cancer: definitions and objectives", Br J Surg, 73(7): tr.
513-4.
14. S.
Kitano, K. Yasuda & N. Shiraishi (2006), "Laparoscopic surgical resection for early gastric cancer", Eur
J Gastroenterol Hepatol, 18(8): tr. 855-61.
15. J.
S. Lim, M. J. Yun, M. J. Kim, W. J. Hyung,
và cs (2006), "CT and PET in
stomach cancer: preoperative staging and monitoring of response to
therapy", Radiographics, 26(1): tr. 143-56.
16. I.
S. Park, Y. C. Lee, W. H. Kim, S. H. Noh,
và cs (2000), "Clinicopathologic
characteristics of early gastric cancer in Korea", Yonsei Med J,
41(5): tr. 607-14.
17. Y.
Shimada (2004), "JGCA (The Japan
Gastric Cancer Association). Gastric cancer treatment guidelines", Jpn
J Clin Oncol, 34(1): tr. 58.
18. T.
Shimakawa, Y. Naritaka, S. Asaka, N. Isohata,
và cs (2008), "Neoadjuvant
chemotherapy (FAP) for advanced esophageal cancer", Anticancer Res,
28(4C): tr. 2321-6.
19. L.
H. Sobin & I. D. Fleming (1997), "TNM Classification of Malignant Tumors, fifth edition (1997). Union Internationale
Contre le Cancer and the American Joint Committee on Cancer", Cancer,
80(9): tr. 1803-4.
20. J.
Yun, J. Lee, S. H. Park, J. O. Park, và
cs (2010), "A randomised
phase II study of combination chemotherapy with epirubicin, cisplatin and
capecitabine (ECX) or cisplatin and capecitabine (CX) in advanced gastric
cancer", Eur J Cancer, 46(5): tr. 885-91.
21. Suematsu
T Adachi Y, Yasuda K, Shiromizu a, Shiraishi N, Kitano S (1999), "Clinicopathologic study of gastric cancer
based on Dukes' classification", World J Surg 23(5): tr. 499-502.
22. M.D.
David Cunningham, William H. Allum, M.D., Sally P. Stenning, M.Sc., Jeremy N.
Thompson, M.Chir., & M.D. Cornelis J.H. Van De Velde, Ph.D., Marianne
Nicolson, M.D., J. Howard Scarffe, M.D., Fiona J. Lofts (july 6, 2006),
"Perioperative Chemotherapy versus
Surgery Alonefor Resectable Gastroesophageal Cancer", The new england journal
of medicine, 355: tr. 11-20.
23. P.
Carlini2 G. Cocconi1*, A. Gamboni1, S. Gasperoni3, C. Rodinò4, S. Zironi5, G.
Bisagni6, S. Porrozzi7, & F. Di Costanzo3 F. Cognetti2, R. Canaletti4, E.M.
Ruggeri2, R. Camisa1 & F. Pucci1 (2003), "Cisplatin, epirubicin, leucovorin and 5-fluorouracil (PELF) is
moreactive than 5-fluorouracil, doxorubicin and methotrexate(FAMTX) in advanced
gastric carcinoma", Annals of Oncology, 14: tr. 1258-1263.
24. Md
Judith Meza-Junco, Md Heather-Jane Au, Frcpc, Mph & Md Michael B. Sawyer,
Bscphm, Frcpc (2010), "Overview
of Trastuzumab’s Utilityfor Gastric Cancer", Department of Oncology
Cross
Cancer Institute 11560 University Avenue Edmonton, Alberta, Canada: tr. 28-32.
25. C
Harper-Wynne1 K Sumpter1, D Cunningham*,1, S Rao1, N Tebbutt1, Ar Norman1, C
Ward1, T Iveson2, & T Hickish4 M Nicolson3, M Hill1,5 and J Oates1 (2005),
"Report of two protocol planned
interim analyses in a randomisedmulticentre phase III study comparing
capecitabine withfluorouracil and oxaliplatin with cisplatin in patients with
advancedoesophagogastric cancer receiving ECF", British Journal of
Cancer 92: tr. 1976-1983.
26. Atiq
Ot Kelsen D, Saltz L, Et Al (1992), "FAMTX versus etoposide, doxorubicin, and cisplatin: a random assignment
trial in gastric cancer", J Clin Oncol, 10: tr. 541-548.
27. Ajani
J Moiseyenko V, Tjulanclin S, Et Al (2005), "Final results of a randomized controlled phase III trial (TAX 325)
comparing docetaxel (T) combined with cisplatin (C) and 5-fluorouracil (F) to
CF in patients (pts) with metastatic gastric adenocarcinoma", ASCO
Annual Meeting Proceedings. J Clin Oncol, 23: tr. 16.
28. Jung
Hoon Kim Richard M. Gore, And Chiao-Yun Chen (2010), " PET/CT, and MRI in the management of
patients with gastric neoplasms. M. Gore: Gastric Cancer", Cambridge
University Press, 7: tr. 120-170.
29. Marc
Ychou (2005), "Recommandations
pour la pratique clinique. Standards, Options et Recommandations 2004 pour la
prise en charge des patients atteints d’adénocarcinomes de l’estomac, cancers
du cardia, autres types histologiques exclus (évaluation des
thérapeutiques)", Bull Cancer 92(4): tr. 382-409.
Bình luận